Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Nữ cao kịch tính - Những giọng hát khổng lồ trong âm nhạc

Trong âm nhạc, chúng ta thường bắt gặp từ "kịch tính". Khi nghe một ca sĩ có chất giọng khỏe hát đến đoạn cao trào, khán giả thường tung hô về sự kịch tính trong giọng hát của họ, kiểu như: "Sao cô ấy/anh ấy có thể hát kịch tính đến thế!", "Giọng hát của cô ấy/ anh ấy thật kịch tính!", "Hay quá, kịch tính quá!"... Với cách tán dương như thế, có thể thấy "kịch tính" bao giờ cũng đi liền với sự hấp dẫn, cuốn hút. Theo chiết tự, "kịch tính" có nghĩa là hàm chứa tính kịch, mà đã có tính kịch thì không thể bình lặng, phẳng lặng, bao giờ cũng có sự cao trào, hấp dẫn (giống như một vở kịch thì bao giờ cũng có kết cấu thắt nút, xung đột, cao trào và mở nút để cuốn hút khán giả). Còn trong tiếng Anh, "dramatic" không chỉ có nghĩa là "kịch tính" mà còn có nghĩa là "ấn tượng". Theo nghĩa đó, một giọng hát chứa đựng sự kịch tính bao giờ cũng đi liền với sự ấn tượng và hấp dẫn. Trong các loại sắc thái giọng hát, có thể thấy một bộ phận không nhỏ giọng lirico (trữ tình), hoặc coloratura (màu sắc) kém chất lượng (chẳng hạn như Bảo Thy, Đông Nhi, Hồ Ngọc Hà, hay nhiều ca sĩ trẻ Vpop hay Kpop), nhưng tuyệt nhiên không thấy một giọng kịch tính (dramatic) nào kém chất lượng quá mức. Vì bản thân giọng kịch tính đã có cái bẩm sinh nổi trội hơn các giọng thông thường khác là to, khỏe, có sức bền, đôi khi là có độ vang bẩm sinh, thích hợp để phô diễn giọng hát, tạo cuốn hút cho khán giả.
Nhiều người thường lầm tưởng giữa "kịch tính" và "giọng kịch tính", họ thường nhận nhầm một giọng spinto, lirico, coloratura là kịch tính. Trên thực tế, giọng spinto có thể đẩy lên kịch tính ở các đoạn cao trào, đôi khi là tương đương với giọng kịch tính, một số giọng full lirico hoặc coloratura cũng có thể đẩy lên kịch tính ở một số đoạn hát nhất định nhờ sự bền bỉ luyện tập. Nhưng giọng kịch tính chính cống thì lại không nhiều. Trong lịch sử âm nhạc, giọng kịch tính thường chỉ được thấy ở một số ca sĩ phương Tây (tính cả Nga) và gốc Phi, ở châu Á từ trước đến nay chưa hề xuất hiện một giọng kịch tính nào.

Sắc thái giọng kịch tính trải dài các loại giọng từ thấp đến cao, từ nam trầm kịch tính, nam trung kịch tính, nao cao kịch tính đến nữ trầm kịch tính, nữ trung kịch tính, nữ cao kịch tính. Nhưng trong lịch sử nhạc cổ điển cũng như nhạc đại chúng, nữ cao kịch tính (dramtic soprano) bao giờ cũng gây ấn tượng mạnh mẽ và thu hút nhiều sự quan tâm nhất. Lí giải điều này, tôi cho rằng nữ cao thường có âm sắc mảnh và sáng hơn nữ trầm và nữ trung (vốn mang âm sắc dày, tối, thích hợp để tiến tới sự kịch tính hơn), và càng lên cao giọng hát càng nhỏ và mỏng đi, nên một nữ cao kịch tính được cho là hiếm gặp hơn, cũng như phải bỏ công sức rèn luyện nhiều hơn (điều này sẽ nói tiếp ở phần sau). Hơn nữa, sự kịch tính được tạo ra trên những quãng cao trào cũng tạo sức hút với đại bộ phận khán giả hơn.
Trong opera, nữ cao kịch tính được định nghĩa là một loại giọng nữ cao mạnh mẽ, có khả năng hát nổi bật hơn hoặc cắt xuyên một dàn nhạc, âm sắc thường dày hơn một giọng nữ cao thông thường, có sức bền bỉ, vững chãi hơn, nhưng lại ít linh hoạt hơn. Loại giọng này có quãng đẹp thấp hơn các giọng nữ cao khác, âm sắc thường tối hơn, thường được dùng cho các vai nữ anh hùng, hoặc những phụ nữ khổ đau, điên loạn. Âm vực thông thường của một nữ cao kịch tính thường trải dài từ C4 đến D6. Một số nữ cao kịch tính đặc biệt thường hát trong các vở opera chuyên về kịch tính của trường phái Wagner, được gọi là Wagnerian soprano, có khả năng áp đảo một dàn nhạc lớn (biên chế trên dưới 100 nhạc công với đầy đủ các nhạc cụ có âm lượng lớn), hát liên tục với cường độ âm lượng cực lớn.

Một số đặc điểm chung của nữ cao kịch tính gồm có:

1. Âm sắc lạnh và tính chất đanh, rắn kiểu cổ điển.

2. Âm lượng cực lớn, khổng lồ ở những quãng cao.

3. Có sức chịu đựng cực lớn, bền bỉ khi hát ở những trường đoạn kịch tính, đẩy mạnh âm lượng (fortisimo).

4. Có sự đồng nhất về âm sắc, âm lượng ở các quãng trung và cao.

5. Có tính sử thi, có sức nặng ở những quãng cao.
Tìm hiểu về nữ cao kịch tính, cần phải lấy xuất phát điểm từ opera đầu tiên, vì đây là môi trường tốt nhất để những giọng ca "khổng lồ" này phát triển hết khả năng của mình, đạt được nhiều thành công nhất trong nghệ thuật. Dưới đây là danh sách một số giọng dramatic soprano và Wagnerian soprano trong giới opera. Về cơ bản, dramatic soprano và Wagnerian soprano là một, nhưng Wagnerian được phân biệt với dramtic soprano ở chỗ, tên tuổi của họ gắn liền với trường phái opera Wagner (trường phái opera đặc biệt, luôn luôn đòi hỏi một giọng hát thuần kịch tính và hát kịch tính trong suốt vở diễn.

Một số dramatic soprano:

1. Hildegard Behrens
2. Christine Brewer
3. Maria Callas
4. Maria Caniglia
5. Anita Cerquetti
6. Gina Cigna
7. Emmy Destinn
8. Ghena Dimitrova
9. Dorothy Dow
10. Jane Eaglen
11. Eileen Farrell
12. Kirsten Flagstad
13. Leyla Gencer
14. Naděžda Kniplová
15. Marjorie Lawrence
16. Félia Litvinne
17. Lotte Lehmann
18. Germaine Lubin
19. Alessandra Marc
20. Zinka Milanov
21. Maria Nemeth
22. Agnes Nicholls
23. Birgit Nilsson
24. Lillian Nordica
25. Jessye Norman
26. Deborah Polaski
27. Rosa Ponselle
28. Rosa Raisa
29. Elinor Ross
30. Leonie Rysanek
31. Joan Sutherland
32. Sharon Sweet
33. Helen Traubel
34. Eva Turner
35. Deborah Voigt
36. Lisa Gasteen
37. Eva-Maria Westbroek

Một số Wagnerian soprano:

1. Florence Austral
2. Anne Evans
3. Kirsten Flagstad
4. Othalie Graham
5. Johanna Gadski
6. Gertrude Grob-Prandl
7. Alice Guszalewicz
8. Rita Hunter
9. Gwyneth Jones
10. Turid Karlsen
11. Hilde Konetzni
12. Lilli Lehmann
13. Frida Leider
14. Germaine Lubin
15. Éva Marton
16. Johanna Meier
17. Anna von Mildenburg
18. Martha MODL
19. Nina Stemme
20. Birgit Nilsson
21. Lillian Nordica
22. Milka Ternina
23. Helen Traubel
24. Eva Turner
25. Astrid Varnay
26. Lisa Gasteen
27. Christine Goerke

Nhìn vào số lượng các giọng nữ cao kịch tính trên, có thể thấy opera có rất điều đất diễn cho các giọng nữ cao kịch tính. Rất nhiều nhà soạn nhạc huyền thoại như Wagner, Verdi, Puccini, Strauss thường xuyên ưu ái dành vai nữ chính trong các vở opera của mình cho họ. Và đa số các vở opera đó đều thành công vang dội, đem lại vinh quang cho ca sĩ, đưa họ lên hàng Prima Donna (danh hiệu cao quý nhất cho một nữ ca sĩ opera, tương tự với từ Diva trong nhạc pop). Đây là điều kiện thuận lợi lớn để đào tạo và phát triển giọng nữ cao kịch tính trong opera.

Đặc điểm của một nữ cao kịch tính trong opera gồm có:

1. Âm sắc sáng và góc cạnh, đanh thép.

2. Âm lượng lớn, khổng lồ ở những quãng cao.

3. Sức mạnh khủng khiếp ở những trường đoạn fortisimo (những đoạn gia tăng âm lượng to dần).

Chúng ta hãy cùng thưởng thức sự kịch tính đúng nghĩa qua giọng hát của một số giọng nữ cao kịch tính nổi tiếng trong giới opera như Birgit Nilsson, Joan Sutherland, Ghena Dimitrova, Maria Callas qua các màn trình diễn sau đây.

Birgit Nilsson tung một note A#5 to khủng khiếp, xuyên thủng dàn nhạc (6:01).
https://www.youtube.com/watch?v=L4Jqro5Mo68

Birgit Nilsson áp đảo Domingo, giọng spinto tenor nội lực của thế kỉ bằng những note C6 to vĩ đại (11:51).
https://www.youtube.com/watch?v=cOeN_H4JLhI

Birgit Nilsson áp đảo Bernd Aldenhoff, một giọng helden tenor (nam cao siêu kịch tính) ở những note C6 (1:19).
https://www.youtube.com/watch?v=Mf9lI9QtuEQ

Joan Sutherland áp đảo dàn nhạc và các bạn diễn với note D6 to khủng khiếp (0:19).
https://www.youtube.com/watch?v=b5f5KMQaAac

Ghena Dimitrova áp đảo giọng nam cao Martinucci (5:25).
https://www.youtube.com/watch?v=YyxX7WoPkTQ

Maria Callas tung note Eb6 được đánh giá là to nhất lịch sử âm nhạc (4:49).
https://www.youtube.com/watch?v=Y2_NC7bJjeg

Kirsten Flagstad tung note A5 được đánh giá là to nhất kỉ nguyên ghi âm (Từ 9:00).
https://www.youtube.com/watch?v=owtgjBFHBf8
Qua một số màn trình diễn trên, có thể thấy một giọng nữ cao kịch tính nếu hát hết tốc lực sẽ đạt tới sức mạnh vô cùng khủng khiếp, lấp đầy toàn bộ nhà hát, xuyên thủng một dàn nhạc lớn mà không cần tới sự trợ giúp của micro. Nhiều khán giả kể rằng họ đã bị ù tai khi nghe các giọng nữ cao kịch tính hát những đoạn cao trào trong nhà hát. Hãy tưởng tượng được nghe trực tiếp một giọng hát phi thường như thế, cảm giác sẽ thăng hoa tới mức nào? Đó là lí do vì sao các giọng nữ cao kịch tính chuyên nghiệp luôn là tâm điểm của đêm nhạc, thu hút sự quan tâm nhiều nhất từ khán giả. Vào thập niên 50, 60, những nữ cao kịch tính như Birgit Nilsson, Maria Callas luôn nhận được mức catse cao nhất, được sự săn đón của các nhà hát lớn (dù tính cách của họ rất chảnh chọe, đòi hỏi nhiều thứ vô lí).

Khi nhắc tới các giọng nữ cao kịch tính, không thể không nhắc tới một số ca sĩ rất đặc biệt sau:

- Birgit Nilsson, giọng nữ cao kịch tính xuất sắc và thành công nhất thế kỉ XX, người đại diện cho trường phái opera Wagner (dù trước bà đã có một tên tuổi cực lớn là Kirsten Flagstad). Khác với tất cả các giọng nữ cao kịch tính khác vốn có âm sắc hơi tối kiểu nữ trung, Nilsson sở hữu một âm sắc sáng rực như một nữ cao màu sắc. Đây là một điều vô cùng quý hiếm, vì dù sáng và cao vút nhưng lại không mảnh, nhẹ như như nữ cao màu sắc thông thường, mà lại chắc nịch, đanh thép, khổng lồ đúng nghĩa kịch tính thực sự. Nhiều nhà phê bình gọi Nilsson là "một chất giọng Wagner lộng lẫy mà lại nghe như Mozart". Theo nhiều tài liệu ghi nhận, Nilsson có thể lên tới note F6, một note thuộc ngưỡng rất cao của giọng màu sắc mà giọng kịch tính không thể lên tới được. Nilsson còn đặc biệt hơn nữa so với các giọng ca khác khi càng về già, giọng của bà lại càng sáng ra. Bản thân Nilsson cũng từng so sánh sự khác biệt giữa mình với các Wagnerian soprano khác là: "Kĩ thuật thanh nhạc của tôi tạo ra thứ âm thanh thanh thoát hơn, không quá tối và dầy dặn trong âm vực thấp như các vị tiền bối, nhưng vì thế lại có thể tập trung sức mạnh hơn cho những note cao nhất". Bà cũng là một trong số rất ít nữ cao kịch tính có thể giữ giọng lâu bền mà không hề có dấu hiệu mất giọng, dù phải hát thường xuyên những vai kịch tính nặng trong suốt sự nghiệp.

Về kĩ thuật, có thể nói, Nilsson nắm trùm ở mảng "project" âm thanh, với những note B5, C6 được phóng ra với âm lượng khổng lồ, đanh thép, xuyên thủng một dàn nhạc, mà lại vô cùng chuẩn mực, chính xác đến không ngờ. Gần như không có giọng nam nào dám đọ giọng với bà ở những note cao vì uy lực của bà quá lớn, sẵn sàng át hết các giọng ca hát chung. Và mặc dù đồ sộ như vậy, nhưng bà vẫn có đầy đủ kĩ thuật và khả năng làm cho giọng hát của mình trở nên mềm mại ở những chỗ cần thiết. Thậm chí, kĩ thuật vuốt nhỏ giọng (pianissimo) của bà còn tốt hơn người ta tưởng rất nhiều. Khả năng điều khiển hơi thở tốt, giữ hơi bậc thầy giúp bà tung được những chuỗi note kịch tính căng tràn trong suốt một làn hơi dài bất tận, điều được coi là khó khăn với giọng kịch tính vốn bị âm lượng quá to chèn mất hơi thở.

- Maria Callas, giọng nữ cao kịch tính toàn năng (assoluta), có thể hát thành công mọi vai diễn được viết ra cho giọng nữ, từ nữ trầm, nữ trung, đến các giọng nữ cao như lirico soprano, dramatic soprano, coloratura soprano, spinto soprano... Âm vực trải dài từ nam cao đến nữ cao màu sắc. Một trong những nữ cao kịch tính có kịch mục rộng lớn và thành công nhất opera.

- Joan Sutherland, bẩm sinh là giọng nữ cao kịch tính nhưng được huấn luyện để trở thành một giọng nữ cao màu sắc theo dòng Bel canto nên sở hữu âm sắc giọng đẹp mượt mà vào bậc nhất opera, cùng những kĩ thuật hoa mỹ phức tạp riêng của Bel canto (như trillo, pianissimo, messa di voce, mezzo trillo, staccto...), âm vực vượt quãng của dramatic soprano thông thường, lên tận F6 vốn là note chỉ dành cho coloratura soprano. 

- Kirsten Flagstad, giọng nữ cao kịch tính nhưng có âm sắc đẹp và mềm mại bẩm sinh không thua gì giọng lirico soprano nào, đồng thời cũng là một trong những soprano có thể hát nhạc Wagner lâu bền nhất.

- Ngoài ra, không thể không nhắc tới Regine Crespin, là một nữ cao trữ tình (hoặc là spinto) nhưng lại có chất giọng khỏe và to đột biến, thậm chí còn vượt qua cả các giọng nữ cao kịch tính khác.
Trên thực tế, nhiều giọng spinto soprano hoặc lirico soprano có kĩ thuật thượng thừa vẫn thường đảm nhận những vai dành cho nữ cao kịch tính để mở rộng kịch mục của mình (chẳng hạn như Montserrat Caballe đã từng hát Salome, Turandot, Isolde, Brunhilde), một số spinto soprano có nội lực tốt như Leontyne Price, Renata Tebaldi, Renata Scotto... cũng có khả năng đẩy giọng hát lên mức kịch tính ở những đoạn hát cao trào, gần ngang với một nữ cao kịch tính. Vậy sự khác nhau giữa nữ cao kịch tính và các giọng nữ cao khác ở chỗ nào? Chính là ở sức bền bỉ và chịu đựng cao. Bởi ai cũng biết rằng opera của Wagner thường diễn ra trong thời gian rất dài, trung bình 4 giờ đồng hồ cho một vở. Điển hình như bộ 4 vở opera Der Ring des Nibelungen nếu hoàn thành phải mất 15 giờ đồng hồ. Chỉ riêng vở Gotterdammerung đã kéo dài tới 5 giờ đồng hồ, trong đó, lượng thời gian nhân vật Brunhilde (vai nữ chính dành cho nữ cao kịch tính) xuất hiện chiếm không nhỏ, và càng về cuối lại càng cần đẩy lên kịch tính. Hay như vai Gurnemanz trong vở Parsifal, phải hết nửa già màn I (tầm gần 1 tiếng) nhân vật nữ chính đứng trên sân khấu để chống chọi dàn nhạc. Thêm một điều nữa, Wagner có quan niệm rất tiêu cực khi coi giọng hát chỉ như một loại nhạc cụ, phải khai thác triệt để. Bởi thế, opera của Wagner thường được ví như "cỗ máy chém" với giọng hát, vì biên chế dàn nhạc của ông khá đồ sộ, trên dưới 100 nhạc công, với nhiều bộ nhạc cụ bằng đồng (loại nhạc cụ cho âm lượng lớn), ca sĩ buộc phải hát thật to nếu không muốn bị áp đảo bởi dàn nhạc. Thử tưởng tượng, nếu bạn không có chất giọng to khỏe vượt trội bẩm sinh, không có sức bền bỉ, liệu bạn có thể hát liên tục trong thời gian dài với cường độ âm lượng lớn để đối đầu với dàn nhạc khổng lồ phía sau? Đó là chưa tính tới việc dù hát với âm lượng cực lớn, nhưng vẫn phải giữ được sự tự nhiên của giọng hát chứ không phải kiểu cố rướn lên cho thật to. Trên thực tế, có nhiều ca sĩ opera dù có kĩ thuật thượng thừa, nhưng vì cố gắng hát những vai kịch tính trong nhiều năm (trong khi nó không thuộc loại giọng của mình), đã khiến giọng hát bị tàn phá, phải nghỉ hưu sớm, điển hình như Beverly Sills, Katia Ricciarelli, Giuseppe di Stefano... Diva huyền thoại nước Úc Nellie Melba từng thử một lần hát vai Brunhilde, khiến thanh đới hư tổn và phải tĩnh dưỡng nhiều tháng, giọng hát sau đó cũng không còn giữ được vẻ đẹp trong trẻo như trước. Hay Astrid Varnay, dù là một Wagnerian soprano nổi bật trong những năm 40, 50, nhưng giọng hát cũng đi xuống khi ngoài 40 tuổi vì khai thác không đúng cách giọng hát của mình. Còn các giọng nữ cao kịch tính đích thực thì ngược lại, dàn nhạc dù đồ sộ bao nhiêu họ vẫn áp đảo được một cách dễ dàng, nếu sử dụng đúng kĩ thuật và khia thác giọng đúng cách, họ không lo đến vấn đề mất giọng.

Sau đây là clip ghi lại hình ảnh Birgit Nilsson đối đầu với dàn nhạc khổng lồ phía sau trong một trích đoạn opera của Wagner (lưu ý, cột mic chỉ có tác dụng thu lại âm thanh chứ ko khuếch đại âm thanh).
https://www.youtube.com/watch?v=uSGbM2jvahY

Giuseppe Verdi là một trong những nhà soạn nhạc tài năng nhất trong lịch sử opera, nhưng thời kì đầu, vì chịu ảnh hưởng nhiều từ Donizetti, và bản thân cũng chưa hòan toàn làm chủ, nhuần nhuyễn trong việc viết cho giọng hát nên ông thường nghĩ ra những vở opera trái khoáy, làm khó ca sĩ, mà chủ yếu là muốn đẩy giọng hát lên mức siêu kịch tính, thậm chí còn kinh khủng hơn cả Wagner. Nhạc trưởng R.Bonynge đã từng nói về các vở opera thời kì đầu của Verdi như sau: "Chúng không tốt cho giọng bởi vì chúng bắt giọng hát phải hoạt động trái với tự nhiên. Chúng muốn bạn hét ở khoảng cao, belt ở khoảng thấp, và dùng nhiều lực ở khu trung. Điều này hiếm khi có được ở 1 người bình thường". Còn Caballe hồi trẻ đã từng muốn thử hát Abigaille, đàn chị Callas thấy vậy liền ngăn cản ngay: "Giọng em mà hát vai đấy thì chẳng khác nào nhét một chiếc ly pha lê quý vào hộp rồi xóc mạnh". Bởi lẽ đó, chỉ có những giọng nữ cao kịch tính thực sự mới dám động vào opera của ông thời kì này, điển hình là Ghena Dimitrova.

Dimitrova áp đảo toàn bộ dàn bè và dàn nhạc với những note cực to trong vở Nabucco.
https://www.youtube.com/watch?v=jv-gPhUE2gs

Không thể không nhắc tới vai Odabella (trong Atilla), một trong những vai nữ chính khó nhất trong opera thời kì đầu của Verdi. Không chỉ yêu cầu một giọng hát kịch tính xuyên thủng dàn nhạc, phải làm việc tối đa trên toàn bộ các âm khu, nó còn đòi hỏi khả năng chạy note (kĩ thuật hoa mỹ cho giọng nữ cao màu sắc) với tốc độ nhanh khủng khiếp. Thêm nữa, chỉ mới vào màn khai mở chỉ vài phút, nữ chính chưa kịp khởi động đã phải hát một trường đoạn mang tính "gào thét kinh dị" là Santo di Patria... Da te questo (rất khó khăn). Joan Sutherland từng nói rằng bản thân bà không thích những vai diễn của Verdi thời kì đầu, vì nó bắt giọng hát phải lao động kiệt sức một cách trái tự nhiên. Joan không bao giờ hát Odabella đầy đủ dù chỉ thu âm hay trực tiếp trên sân khấu, nhưng aria Santo di Patria của bà lại luôn được coi là đỉnh cao, chuẩn mực,cho thấy một giọng hát vang, kịch tính, âm lượng lớn đáng ngưỡng mộ và kĩ thuật coloratura thần thánh.
https://www.youtube.com/watch?v=blVxVjcCk5M
Cần lưu ý rằng, để biết đâu là một giọng kịch tính, cũng như muốn thưởng thức rõ nhất sự kịch tính trong giọng hát của họ, cần phải nghe trực tiếp. Vì qua những clip, những file âm thanh được thu lại, âm lượng và sự khổng lồ của giọng hát bị giảm đi rất nhiều, chưa kể đa số là những clip chất lượng thấp, dù có hát to mấy thì cũng thành bé. Còn công nghệ phòng thu có thể biến một giọng trữ tình thành một giọng kịch tính được, nên các ca khúc thu âm cũng không phản ánh được một cách công bằng. Đó là lí do vì sao Birgit Nilsson, Regine Crespin giai đoạn sau này không còn tới phòng thu nữa, vì họ cho rằng việc thu âm không phản ánh đúng giọng hát của họ.

Một điều quan trọng nhất đối với các giọng nữ cao kịch tính là vấn đề khổ luyện và thời gian, chính điều này mới khiến họ được công chúng nể trọng hơn cả. Chúng ta cần biết rằng, một nữ cao kịch tính muốn phát triển đến đỉnh cao trong giọng hát phải mất rất nhiều thời gian và công sức khổ luyện, chứ không thể chỉ dựa vào năng lực bẩm sinh của mình. Lợi thế lớn nhất của nữ cao kịch tính là chất giọng khỏe, dày, âm lượng lớn hiếm gặp, nhưng chính điều đó lại khiến giọng của họ trở nên thiếu linh hoạt. Các nữ cao kịch tính khi còn trẻ (trước 30 tuổi) thường có xu hướng hoạt động hết công suất, vắt kiệt giọng hát của mình. Nhiều ca sĩ còn bị che mắt bởi sự tán dương của khán giả mà quên đi cảm xúc, tinh tế, chỉ biết phô diễn giọng hát của mình một cách quá mức, để dần dần, giọng hát trở nên thô thiển, mờ nhạt. Nếu không biết cách sử dụng giọng hát của mình sao cho nhuần nhuyễn, thì dù âm lượng có lớn đến đâu, nữ cao kịch tính vẫn có thể bị áp đảo bởi các giọng nữ khác. Eva Marton là một nữ cao kịch tính có chất giọng khá to và khỏe, nhưng phong độ lại không ổn định, có lúc khá ấn tượng, mạnh mẽ, có lúc lại bình thường, thậm chí nhạt nhòa. Nếu ai xem DVD Lohengrin 1986 sẽ thấy thất vọng trước một Elsa (Marton) lờ đờ, nhạt nhẽo bên cạnh vai thứ - phản diện Ortrurd (Rysanek) góc cạnh, bùng nổ đầy cá tính cả trong giọng hát và diễn xuất. Trong khi đó, Rysanek đã ngoài 60 tuổi, đã qua thời kì hoàng kim được 20 năm trong khi Marton thì đã đang ở độ tuổi chín muồi về giọng hát lẫn kĩ thuật. Còn vai Leonora trong Il trovatore thì bị Marton làm cho trở nên nhạt nhẽo, với sự mệt mỏi, thiếu sức sống.

Đa số khán giả đều tỏ ra hoài nghi trước một nữ cao kịch tính dưới 30 tuổi, vì khác các loại giọng khác, hầu như các giọng kịch tính thực sự chỉ đạt đến độ chín muồi và ổn định ở độ tuổi 35 - 40 trở đi (hiếm có người trước 30, và đa phần rất dễ suy tàn sớm nếu hát quá nhiều vai nặng khi còn trẻ, kể cả có gốc giọng to, khỏe). Các giảng viên thanh nhạc đều cho rằng, việc đào tạo một nữ cao kịch tính là khó nhất trong các loại giọng. Cái khó của đào tạo giọng kịch tính là họ phải "tự đào tạo" bản thân sau này, vì giọng kịch tính ổn định chậm hơn so với các giọng khác (nhưng cũng bởi vậy mà họ có thể giữ giọng bền lâu hơn nếu làm đúng kĩ thuật). Những giảng viên ban đầu của nữ cao kịch tính thường phải để ý đến đặc điểm giọng để hạn chế những điểm yếu và quan trọng nhất là kiềm chế họ để họ ko khai tác giọng quá đà khi còn trẻ. Nên nhớ rằng, cả Birgit Nilsson lẫn Kirsten Flagstad đều phải đợi đến 40 tuổi mới dám hát opera của Wagner thường xuyên. Flagstad thì ban đầu thường hát các vai trữ tình, còn Nilsson sau khi hát một số vai khởi đầu sự nghiệp, đã tự động rời bỏ sân khấu để quay về tiếp tục khổ luyện thêm một thời gian rồi mới trở lại khi cảm thấy giọng hát đủ chín. Thực tế trong opera cũng như pop đại chúng, những giọng spinto hoặc lirico soprano có nhiều thuận lợi để phát triển giọng hát và mở rộng kịch mục của mình hơn. Nếu có kĩ thuật tốt và biết phân bổ sức hợp lí, họ có thể hát cả vai trữ tình lẫn kịch tính, nhưng nếu bảo một giọng kịch tính hát vai trữ tình hay màu sắc thì nghe chừng hơi khó khăn. Giọng kịch tính bị bất lợi hẳn về legato (vấn đề cơ bản nhất trong giọng hát) so với các loại giọng khác, một phần do âm lượng quá to đè nén hơi thở. vì vậy, họ buộc phải tập luyện bền bỉ để bù đắp hạn chế này, nếu không muốn giọng hát của mình trở nên thô thiển, thiếu cảm xúc. Birgit Nilsson nói rằng, bà vẫn thường luyện giọng bằng cách hát aria Queen of the night (aria dành riêng cho nữ cao màu sắc với nhiều đoạn chạy note khó nhằn) để làm giọng hát của mình trở nên mềm mại, mượt mà hơn.
Trong khi giảng dạy, Birgit Nilsson luôn dặn học trò của mình là bà muốn "một cái bánh được nướng chín trước khi được trang trí", và bà nhấn mạnh rằng "hát bằng tâm hồn chứ không phải bằng cổ họng". Khi được hỏi về mối quan tầm lớn nhất của mình đối với các giọng ca trẻ, bà tỏ ra lo ngại về việc nhiều nữ cao kịch tính ngày nay chạy theo thương mại mà khai thác giọng hát của mình một cách quá đà khi chưa đủ độ chín, bà nói: "Có một số người đủ nhạy cảm để hiểu, nhưng phần lớn thì không. Nhưng tôi không thề đổ lỗi hết cho họ bởi vì đó là sự nghiệp của họ và họ đang háo hức được phát triển, họ nghĩ rằng mỗi lời mời đều là một cơ hội đối với họ. Có rất nhiều người không chịu lắng nghe và họ tin rằng họ sẽ là người làm nên chuyện. Thảng khi cũng có nghệ sĩ hiếm hoi đạt được thành tựu, nhưng hầu hết thì không. Và nữa, giọng hát sẽ không thể phát triển âm lượng đúng nếu như anh hát liên tục, sử dụng nó liên tục và khiến nó trở nên kiệt quệ. Anh phải để nó kịp hồi phục và phát triển. Đối với những giọng nhẹ có thể không nhiều lắm, nhưng với những giọng kịch tính thuần, dù là loại giọng nào đi nữa – soprano, mezzo, baritone… cũng sẽ không thể phát triển đầy đủ cho đến khi 30 tuổi. Thậm chí nó còn phát triển sau này nữa. Nếu khai thác nó quá nhiều khi 20 tuổi, giọng hát sẽ không bao giờ mở rộng được đến đúng cỡ của nó... Tôi từng được hỏi về một ca sĩ trẻ nhận vai Brunhilde và tôi nói cô ấy chưa thực sự sẵn sàng cho vai diễn ấy đâu, rồi khuyên họ hãy cố gằng chờ đợi thêm, nhưng họ trả lời, họ không có thời gian để đợi, phải là ngay lập tức. Tôi hỏi ông bầu ấy rằng điều gì sẽ xảy ra nếu cô ca sĩ kia sẽ hỏng giọng, ông ta tỉnh bơ: “Thì sao? Rồi ta sẽ kiếm được người khác thế vào khi cô ta hết thời". Vẫn tiếp tục bàn về độ tuổi cần thiết để đảm nhận những vai kịch tính nặng, Nilsson một lần nữa khẳng định: "Tôi không muốn nhắc đến vấn đề tuổi tác ở đây, nhưng trong khoảng 35 - 40 có thể là quãng thời gian phù hợp nhất để bắt đầu với những vai nặng. Nhìn chung nó là thế, tuy là cũng có những người có thể bắt đầu sớm hơn. Nhưng nếu không sở hữu kĩ thuật vững vàng, họ không nến động vào những vai như thế... Trong khoảng thời gian trước 40 tuổi, họ có thể thử những vai diễn trữ tình hơn cho đến khi giọng hát phát triển hẳn, và giọng hát sẽ lớn dần lên theo những vai mà họ hát. Nó sẽ như thế nếu vai diễn phù hợp với giọng hát. Một số người vốn có giọng hát kịch tính hơn bình thường ngay từ khi họ còn rất trẻ. Tôi từng làm việc với một ca sĩ chỉ mới 22 tuổi mà giọng hát đã cực lớn khiến cô ấy rất khó khăn khi kiểm soát nó. Điều ấy thật đáng sợ. Cô ấy khá thông minh, nhưng cô ấy nhận được quá nhiều lời tán dương về giọng hát khổng lồ đó. Tốt hơn với cô ấy là nên đối phó với nó lúc này và hát một chút nhạc Mozart. Tôi bắt cô ấy hứa với tôi là mỗi sáng trước khi hát bất kì thứ gì, hãy hát “Porgi Amor” trong vở Đám cưới Figaro. Aria ấy của bà bá tước có những chuỗi note nhạc mảnh nhẹ và cô ấy phải làm dịu giọng hát của cô ấy theo. Một giảng viên thanh nhạc chỉ có thể làm được nhiều điều khi người ca sĩ bình tâm và giảng viên chỉ lắng nghe thôi trong khi các học viên lắm lúc họ cứ nghĩ là họ biết nhiều hơn đấy".

Qua những tâm sự trên của Birgit Nilsson, có thể thấy, giọng nữ cao kịch tính tuy có nhiều lợi thế nhưng cũng nhiều hạn chế hơn so với các giọng nữ khác, và một nữ cao kịch tính thường phải mất rất nhiều thời gian để khổ luyện. Bởi lẽ đó, nữ cao kịch tính luôn dành được sự mến mộ nhiều nhất của công chúng, sau những công sức họ phải bỏ ra. Bản thân các nữ cao kịch tính huyền thoại được đánh giá cao không phải vì giọng to, giọng khỏe, mà vì họ là những nữ cao kịch tính hát hay nhất, tinh tế nhất. Sau đây, xin mời xem Birgit Nilsson phiêu một đoạn piamissimo (kĩ thuật hát nhỏ tiếng, đặc trưng của dòng hát đẹp Bel canto) rất mượt mà trong aria Vissi d'arte (2:50). Để một giọng kịch tính to khỏe bẩm sinh có thể chơi được những đường legato nhỏ và mượt trong một làn hơi dài như thế này là một điều vô cùng khó, đòi hỏi kĩ thuật vô cùng điêu luyện (đặc biệt là kiểm soát hơi thở).
https://www.youtube.com/watch?v=3_Iz_RLIYrc

Nữ cao kịch tính trong opera đã ít, thì trong nhạc đai chúng lại càng hiếm hoi hơn. Sở dĩ có tình trạng này vì giới nghe nhạc đại chúng không mấy mặn mà với nữ cao kịch tính, họ thích những gì vừa phải, dễ nghe hơn. Hơn nữa, ca sĩ hát nhạc đại chúng luôn có thêm sự hỗ trợ của micro (với sự phóng đại âm thanh và độ vang giả), nên dù giọng bé tới đâu cũng thành to, nên chỉ cần một spinto là quá đủ để tạo "bão" rồi, dù có sử dụng giọng kịch tính cũng khó mà hay hơn được. Bởi vậy, các giọng nữ cao kịch tính thường có xu hướng tìm đến opera hơn là hát pop. Jane Eaglen, một trong những nữ cao kịch tính hàng đầu hiện này nói rằng cô từng muốn trở thành một ca sĩ nhạc pop vì ngưỡng mộ giọng hát của Whitney Houston, nhưng cô tự nhận thấy chất giọng to khỏe của mình không hợp với pop, vì thế cô quyết định theo đuổi sự nghiệp của một ca sĩ opera.

Trong nhạc đại chúng hiện nay, có hai nữ cao kịch tính khá nổi bật là Patti Labelle và Monica Naranjo, họ thực sự là những "con sư tử" trên sân khấu khiến cho các ca sĩ hát chung phải kiên dè.
Khác với nữ cao kịch tính trong opera, nữ cao kịch tính trong nhạc đại chúng ít khi sử dụng head voice, mà chủ yếu là upper chest voice. Vì thế, chúng ta sẽ thấy một sự khác biệt là, nếu trong opera, quãng head voice của nữ cao kịch tính thường không vươn tới được những note rất cao của các giọng nữ cao khác, thì ở nhạc đại chúng, sở trường của nữ cao kịch tính lại nằm ở những quãng belting cao vút, điều mà các giọng nữ khác luôn phải e ngại. Chẳng hạn, với Whitney Houston thời kì debut (spinto soprano), Mariah Carey (coloratura soprano), việc upper chest lên F5 đã bắt đầu khiến giọng bắt đầu mỏng đi, lên G5 lại càng trở nên mảnh và nhỏ, A5 chỉ còn là những cú hit một hai note khó kiếm soát, còn B5 thì không lên tới được, Celine Dion (lirico soprano) có thể dùng nasal voice hit lên C6, nhưng cũng không hold được note, thì những note này lại quá dễ dàng với Patti và Monica. Hai nữ cao kịch tính này có khả năng hold những note cao từ F5 tới B5 một cách thoải mái trong một làn hơi dài, âm lượng khổng lồ và đồng nhất, không suy chuyển, âm sắc đanh thép, căng tràn, dày dạn. Mời xem clip tổng hợp quãng giọng của hai ca sĩ này để thấy sự uy lực trong giọng hát của họ.

Patti Labelle
https://www.youtube.com/watch?v=tg1or2P5q68

Monica Naranjo
https://www.youtube.com/watch?v=3Kpwkc0UHe8

Cũng như opera, nữ cao kịch tính trong nhạc đại chúng cũng đạt được một số điều phi thường nhờ vào chất giọng to khỏe của mình, khiến ai cũng phải kinh ngạc. Patti Labelle từng tự tin nói rằng: "nếu đưa cho tôi một cái mic, tôi sẽ xé nát nói ra", khi hát bà thường chỉnh mic ở mức tăng âm lượng nhỏ nhất, ít độ vang giả (reverb) nhất, nhưng vẫn khiến khán giả phải sửng sốt vì âm lượng khổng lồ của mình.
Patti phóng âm với độ vang lớn để bắt một chiếc mic cách xa chục mét trong một nhà hát lớn (3:50). Những note G5 được tung ra một cách uy lực và dễ dàng, cảm tưởng như đó chỉ là D5.
https://www.youtube.com/watch?v=i8bfvW6Llqo

Patti phóng âm để bắt một chiếc mic cách xa vài mét trên một sân vận động lớn (9:46).
https://www.youtube.com/watch?v=XMCLwRRMaKE

Patti áp đảo các ca sĩ đàn em ở tuổi 58 (3:58) với những quãng upper chest cực lớn.
https://www.youtube.com/watch?v=g_A7IDLcsdg

Patti hit những note F5, G5 đầy uy lực dù đã ở tuổi 70, khiến tổng thống Obama phải ngỡ ngàng.
https://www.youtube.com/watch?v=RxZS4Jz8njs

Về Monica, có thể xem clip sau đây để thấy sự khác nhau giữa một nữ cao kịch tính đích thực và một nữ cao trữ tình cố gắng hát to, đặc biệt ở những note G5.
https://www.youtube.com/watch?v=CfiKGpVjKFo

https://www.youtube.com/watch?v=1hXB6tSIOQc

Qua một số nhận định và dẫn chứng trên, có thể thấy nữ cao kịch tính thực sự là một loại giọng hiếm có và hấp dẫn trong âm nhạc, gần như một trường phái riêng không thể lẫn vào đâu được. Có thể ví nữ cao kịch tính như những người khổng lồ trên sân khấu, luôn tạo ra những cơn bão đầy uy lực, thổi bay sự phẳng lặng, đem đến cho khán giả những cảm xúc dữ dội. Họ xứng đáng nhận được sự ngưỡng mộ của công chúng, không chỉ bởi chất giọng mạnh mẽ hiếm có, mà còn bởi công sức khổ luyện đáng nể của mình. Dù thị hiếu nghe nhạc đang thay đổi tunhững giọng nữ cao kịch tính tài năng vẫn mãi mãi là những tượng đài đồ sộ cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, bất tử trong lòng công chúng.


_Đức Long_
Hải Phòng ngày 20 tháng 5 năm 2014







Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG CA KHÚC AIN'T GOT NO... I'VE GOT LIFE CỦA NINA SIMONE

I. Giới thuyết khái quát về Chủ nghĩa hiện sinh

          Chủ nghĩa hiện sinh (Existentianlism) là một khuynh hướng triết học, mỹ học, một phong trào văn hóa thịnh hành trước và nhất là sau chiến tranh thế giới thứ II, từng gây bão trong giới trẻ phương Tây nửa cuối thế kỉ XX, được phản ánh rộng rãi trong văn học Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản. Cùng với sự phát triển của văn hóa đại chúng (Pop Culture) trong những thập niên cuối của thế kỉ, nó đã nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới và gây dựng một tầm ảnh hưởng lớn trên nhiều vùng quốc gia, lãnh thổ.

          Về nguồn gốc tư tưởng và triết lí của chủ nghĩa hiện sinh, có thể tìm thấy sớm nhất ở Pascal, nhà văn, nhà tư tưởng Pháp thế kỉ XVII, hoặc ở Dovtoiepski, nhà văn Nga thế kỉ XIX, mà điển hình là tác phẩm Tội ác và trừng phạt. Nhưng trực tiếp nhất phải kể đến lý thuyết về "Tội lỗi của con người trong thời đại mất Chúa" của Soren Kierkegaard, triết gia Đan Mạch nửa đầu thế kỉ XIX. Phản đối Heghen, phản đối triết học cổ điển, Soren chống lại mọi thứ duy lý, logic, hệ thống, nhiệm vụ của triết học theo ông chỉ là mô tả cuộc sống của con người như nó đang tồn tại (hiện sinh). Đồng hành với Soren có thể kể đến Friedrich Nietzsche. Trong các tác phẩm của mình, họ chú trọng vào những sự trải nghiệm chủ quan của con người hơn những chân lý khách quan của khoa học, cái mà họ coi rằng quá xa cách để hiểu được những trải nghiệm của con người, bác bỏ những mệnh đề triết học truyền thống, những chân lí cố hữu được cho là chuẩn mực, quan tâm đến cuộc đấu tranh thầm lặng của mỗi cá nhân với sự vô nghĩa của cuộc sống. Nhưng chủ nghĩa hiện sinh chỉ thực sự nổi lên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II với tên tuổi của hai nhà triết học hiện sinh là Jean Paul Sartre và Albert Camus, các tác phẩm của họ chú trọng vào các chủ đề như "nỗi sợ, sự buồn chán, sự lạc lõng trong xã hội (Social alienation), sự phi lý, tự do, cam kết (Commitment), và hư vô" như là nền tảng của sự hiện sinh con người. Khái quát về con đường của chủ nghĩa hiện sinh, Walter Kaufmann cho rằng, đây là "sự từ chối gia nhập bất cứ trường phái tư tưởng nào, sự bác bỏ rằng không có bất cứ niềm tin hay đặc biệt là hệ thống niềm tin nào là thỏa đáng, và một sự thất vọng rõ rệt đối với triết học truyền thống vì nó bề nổi, hàn lâm, và xa cách với cuộc sống".

II. Văn hóa hiện sinh trong những năm sau thế chiến thứ II

          Trong thời đại tiêu thụ đại chúng, công nghiệp hóa hiện đại, thì thanh thiếu niên là thế hệ dễ bị tổn thương nhất, họ luôn phải quằn mình chịu đựng hàng tấn gông kìm từ phong hóa xã hội và gia đình. Nhà nước, chính quyền, người lớn luôn dùng những chuẩn mực đạo đức, những trật tự cũ kĩ, cổ hủ để đè nén nên đôi vai của những con chim đang khao khát bay nhảy. Với những mệnh đề triết học mới mẻ, phóng khoáng, đầy tự do, chủ nghĩa hiện sinh đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của thế hệ trẻ, được họ ủng hộ và làm theo, trở thành một lối sống riêng - lối sống hiện sinh (còn gọi là phong trào Hippie). Trong văn hóa học, phong trào Hippie được coi là một dạng phản văn hóa, khi mà những người trẻ tuổi trở nên đối lập, xung đột với các chuẩn mực, giá trị chung của toàn xã hội tập hợp lại với nhau thành từng nhóm, xây dựng những chuẩn mực, giá trị riêng (văn hóa nhóm) để công khai bác bỏ những chuẩn mực văn hóa chung. Tôn chỉ của lối sống hiện sinh là: "Con người có một phần động vật, nên nó thuộc về tự nhiên, vì thế phải trả nó về tự nhiên, đừng lấy các quy phạm xã hội cứng nhắc áp đặt nó". Những người trẻ đi theo lối sống hiện sinh luôn muốn gạt bỏ mọi chuẩn mực trong cách sống mà xã hội cố gắng áp đặt lên họ, họ thích để tóc dài, đi chân đất, mặc quần áo có nhiều chỗ rách, thủng và đi tới những nơi sang trọng, thách thức cả xã hội nhìn vào họ. Nếu ở thế kỉ XVII, chủ nghĩa cổ điển nổi tiếng với phương châm "Tôi tư duy là tôi tồn tại" thì bây giờ, giới trẻ sống theo phương châm "Tôi nổi loạn là tôi tồn tại". Rất nhiều người nổi tiếng đã đi tiên phong cho phương châm đó, ví dụ như người mẫu Jean Shrimpton phớt lờ mọi tiếng la ó dè bỉu cô tại cuộc đua ngựa của giới quý tộc ở Úc, xuất hiện trước khán giả trong chiếc váy hơi ngắn hơn thuờng lệ, tay trần, gấu váy cao trên đầu gối 10cm, bỏ cả tất chân, để hở cặp chân rám nắng nổi tiếng, không đeo găng tay và xõa tóc một cách tự nhiên. Không có trang sức đắt tiền, cổ tay cô chỉ đeo một chiếc đồng hồ nam cỡ nhỏ. Phong cách thiếu nữ trẻ trung của cô đã phá vỡ mọi quy ước về trang phục cho những lễ hội trang trọng, thách thức giới thượng lưu Úc và những “lệ làng” của họ. Hay Nan Kempner  mặc đồ bộ Le Smoking  (bộ Texedo lưỡng tính dành cho nữ giới do huyền thoại Yves Saint Laurent thiết kế, tạo nên một kỉ nguyên thời trang mới cho quyền lực của người phụ nữ) vào dùng bữa tại nhà hàng Paris. Khi bị ngăn lại, không được vào nhà hàng, Nan Kemper đã phản kháng lại theo một cách mãnh liệt, cô ung dung cởi chiếc quần và thản nhiên bước vào nhà hàng để lại đám đông đang tròn mắt vì kinh ngạc. Thậm chí ngay cả ở Việt Nam, việc Khánh Ly bỏ giày, đi chân đất lên sân khấu biểu diễn trong những năm đầu sự nghiệp, theo tôi, cũng là một hành động hưởng ứng lối sống hiện sinh lúc bấy giờ.
 
          Tuyên ngôn sống của họ là "Make love, not war" (Làm tình, không chiến tranh), câu khẩu hiệu được lấy từ ca khúc If you're going to San Francisco. Họ phản đối chiến tranh vì đó là con quỷ dữ đem đến đau thương và cướp đi tự do của con người, ủng hộ việc quan hệ tình dục thoải mái, coi nó như một phương tiện dẫn lối cho tự do và giúp họ thoát khỏi xiềng xích của phong hóa cũ kĩ. John Lennon của nhóm The Beatles đã từng hiện thực hóa phương châm này khi tổ chức tuần trăng mật trên giường với cô vợ người Nhật là Yoko Ono, suốt một tuần lễ, hai người chỉ nằm trên một chiếc giường (gọi là chiếc giường hòa bình) tại Amsterdam, Hà Lan và mời nhà báo, chuyên gia đến phỏng vấn, trao đổi như một cách để phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam lúc bấy giờ.
          Tượng đài của lối sống hiện sinh chính là nhóm nhạc The Beatles, âm nhạc và phong cách, thời trang của nhóm luôn thể hiện rõ nhất mọi trạng thái của giới trẻ lúc bấy giờ, từ thái độ chán trường, cô đơn, vô định trong một xã hội đầy phi lí mang đậm tính hậu hiện đại chủ nghĩa, đến những sắc thái nổi loạn, chống chiến tranh, đòi hỏi tự do cho giới trẻ. Nhóm cũng thường xuyên có những phát ngôn gây sốc thể hiện sự nổi loạn, chống phá tư tưởng cũ kĩ như: "The Beatles nổi tiếng hơn Chúa Jesus" (tuyên chiến với tôn giáo), "Nhạc pop là opera của thời hiện đại" (tuyên chiến với nền nghệ thuật chuẩn mực, gò bó của giới quý tộc)... Tại Việt Nam, Trịnh Công Sơn được coi như người đầu tiên mang hiện sinh vào âm nhạc, tương tự với Bob Dylan ở Mỹ. Chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nét tương đồng giữa ca khúc Để gió cuốn đi của Trịnh với ca khúc Blowin' in the wind của Bob, và một số ca khúc mang tính hiện sinh nữa như Tiến thoái lưỡng nan, Phôi pha...
 


          Chủ nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế hệ trẻ, nhưng nó không phải một thứ mốt thời trang để đua đòi học theo, để chứng tỏ bản thân, nó là một lối sống đến từ trái tim và tâm hồn. Với người nghệ sĩ cũng vậy, chỉ những ai thực sự trải qua  bế tắc, cô đơn, đau đớn bởi sự chèn ép của xã hội và có một trái tim khát khao vươn lên mới thực sự thăng hoa trong sáng tạo hiện sinh. Những nghệ sĩ như vậy không nhiều, ngoài những tên tuổi nổi tiếng như tôi vừa nói trên thì Nina Simone chính là một gương mặt tiêu biểu của nền âm nhạc hiện sinh thế kỉ XX.

III. Đôi nét về Nina Simone - người nghệ sĩ tài năng của nền âm nhạc hiện sinh
          Nếu kể tên những nghệ sĩ hàng đầu đã đặt nền móng cho nhạc Jazz nói riêng và âm nhạc của người da màu nói chung, không thể không kể đến Nina Simone, giọng nữ trầm nội lực và đầy ma mị. Sự nghiệp âm nhạc đồ sộ của Nina là ước mơ của nhiều ca sĩ, cô và Etta James được coi như hai thánh nữ của nhạc Jazz, nhưng ít ai biết rằng, cô có một tuổi thơ khá tủi nhục. Nina Simone tên thật là Eunice Kathleen Waymon sinh ngày 21 tháng 2 năm 1933 tại Tryon, tiểu bang North Carolina, trong một gia đình người Mỹ gốc Phi nghèo khó. Giữa một giai đoạn khốn nạn, khi mà nạn phân biệt chủng tộc diễn ra gay gắt và đê tiện nhất, thì những người da màu nghèo khó như gia đình Nina chính là những nạn nhân phải hứng chịu nhiều đè nén nhất. Nina đã từng suýt phải bỏ học dương cầm vì không có tiền, rất may, một mạnh thường quân nhận thấy tài năng của cô lúc đó chỉ mới sáu tuổi và đã trả tiền các lớp dương cầm cho cô. Chấn động tâm lí đầu tiên đến với Nina vào năm 10 tuổi, khi đang trình diễn tại thư viện tỉnh nhà, cô đã phải chứng kiến cha mẹ mình, đang ngồi hàng ghế đầu, bị buộc phải rời chỗ, để nhường cho một cặp da trắng. Hình ảnh này đã in sâu vào tâm trí Nina, nuôi dưỡng một tâm hồn đầy hiện sinh, cái sẽ trở thành tài năng riêng của cô sau này, giúp cô trở thành một trong những nhà hoạt động nhân quyền lớn nhất của nền âm nhạc đại chúng thế kỉ. Trong cuộc đời mình, Nina cũng gặp phải nhiều rắc rối khác vì nạn phân biệt chủng tộc, khi cô đi học, rất ít bạn bè chơi với cô, nhiều trường âm nhạc từ chối cô chỉ vì cô là người da màu, cô đã phải sống trong bế tắc nhiều năm liền do phải chịu quá nhiều kì thị. Nhưng bản lĩnh và nghị lực kiên cường trong tâm hồn cô gái trẻ da màu đã giúp Nina biết lấy những đắng cay đó là ngọn lửa thổi bùng lên đam mê âm nhạc cháy bỏng của mình, để dùng âm nhạc đáp trả lại cuộc đời, đáp trả xã hội chó đểu cô đang sống. Sau này, vì không chịu nổi sự phân biệt chủng tộc tại Mỹ, cô đã chuyển qua châu Âu sinh sống và phát triển sự nghiệp, đạt được nhiều thành công rực rỡ.
 
          Là một người nghệ sĩ có trách nhiệm nghệ thuật cao cả, Nina coi âm nhạc như con thuyền chuyên chở nhân sinh quan tiến bộ của mình đến với công chúng, cô hát về tự do, bình đẳng, công lý, hát để thay đổi thế giới và mang loài người đến gần nhau hơn. Không chỉ vậy, với tuyên ngôn "Bổn phận của một nghệ sĩ là phản ánh thời đại", Nina đã biến âm nhạc của mình thành tấm gương lớn phản chiếu rõ nét một thời đại bão táp những năm thập niên 60 của thế kỉ XX - Thời đại của lối sống hiện sinh. Trong sự nghiệp của mình, Nina có rất nhiều ca khúc mang tính hiện sinh và đấu tranh nhân quyền, chống phân biệt chủng tộc sâu sắc, tự hào về nguồn gốc của mình như Wild is the wind, To be young, gifted and black,  Ain't got no I've got life, Mississippi Goddam... Cô cũng thường xuyên cover lại nhạc của The Beatles, Bob Dylan, vốn là những tượng đài của âm nhạc hiện sinh như Here comes the sun, Revolution, All you need is love, Just like a woman, I shall be released, The times they are a changin... như một cách để thể hiện lập trường âm nhạc, bản lĩnh chính trị vững chắc của mình. Hình ảnh một người phụ nữ thuần da màu, ánh mắt đanh thép, giọng hát trầm khàn đầy nội lực (các giảng viên thanh nhạc ở nhạc viện Lysenko Conservatoria, Lviv, Ukraine và nhiều nguồn tài liệu cho rằng, nếu có một nữ ca sĩ nhạc đại chúng đủ sức đứng chung sân khấu với các ca sĩ opera để đọ giọng mà không bị át giọng, thì đó chỉ có thể là Nina Simone), nhưng đầy ma mị, ảo diệu, vẩn vơ trong làn khói thuốc lá, với đôi tay chơi dương cầm điêu luyện, cất lên những lời ca man dại thách thức cuộc đời đã trở thành bức tượng đài bất diệt trong lòng khán giả.
IV. Dấu ấn hiện sinh trong ca khúc Ain't got no... I've got life của Nina Simone
          Trong những ca khúc thành công của Nina Simone, tôi yêu thích và ám ảnh nhất ca khúc Ain't got no... I've got life, một trong những ca khúc mang đậm dấu ấn hiện sinh nhất mà tôi thấu hiểu được. Thực chất, đây là một liên khúc được chính tay Nina phối nhạc và chuyển thể lại từ hai ca khúc nhỏ là Ain't go no và I've got life trong vở nhạc kịch rock nổi tiếng - Hair do nhà văn James Rado, nhạc sĩ Gerome Ragni và nhà soạn nhạc Galt MacDermot hợp tác sản xuất. Vở nhạc kịch này được coi như sản phẩm xuất sắc kết tinh từ phong trào phản văn hóa Hippie và "Cuộc cách mạng tình dục" những năm thập niên 60. Trong vở nhạc kịch này, việc sử dụng những ngôn ngữ, âm nhạc đường phố, giã tục, các cảnh khỏa thân, tự do tình dục (cả tình dục đồng giới và dị giới), dùng chất kích thích, thái độ giễu nhạo với lá cờ Mỹ, nhạo báng tôn giáo, sống theo những nhóm nhỏ phản văn hóa, tự thiết lập những giá trị riêng (họ gọi đó là "bộ lạc")... đều tựu chung như một phương thức thể hiện sự nổi loạn của thế hệ trẻ để chống lại trật tự xã hội hiện hành, phản đối việc phân biệt chủng tộc, giới tính, tuổi tác, phản đối hành vi phá hoại môi trường, ngăn cách giàu nghèo, những áp đặt tình dục, tôn giáo, lối sống, những tham nhũng chính trị, phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam và đề cao hòa bình, quay về với tự nhiên. Ra đời năm 1968, giữa lúc mà chiến tranh Việt Nam đang leo thang một cách khốc liệt, vở nhạc kịch dù gây nhiều tranh cãi, phản ứng, nhưng nhanh chóng nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của thế hệ trẻ ở Mỹ, để rồi lan rộng ra toàn xã hội phương Tây, tiếp sức mạnh vũ bão cho lối sống hiện sinh bùng cháy trong tầng lớp thanh thiếu niên, tạo nên những thay đổi lớn trong xã hội. Nina Simone, cũng là một trong những người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ vở nhạc kịch kinh điển này, nên đã sử dụng nó làm chất liệu sáng tạo cho âm nhạc. Đây chính là kết quả từ sự tiếp thu "cơn bão táp" của thời đại (khách thể) với trái tim hừng hực lửa sống của mình (chủ thể) để đạt đến những thăng hoa trong nghệ thuật.
          Phần nhạc của ca khúc được Nina phối lại theo thể loại Africa pop, một loại pop đặc trưng của người châu Phi, pha thêm chút Folk với nhạc cụ và bộ gõ acoustic khá tự nhiên. Việc sử dụng Africa pop hòa cùng với chất giọng trầm khàn đầy man dại, huyền ảo như một cách để Nina thể hiện niềm tự hào, chứng minh sự hiện sinh của màu da mình, đồng thời đem cái tự nhiên, bí ẩn của châu Phi hoang sơ vào âm nhạc, khẳng định một lần nữa tôn chỉ của chủ nghĩa hiện sinh: "Con người có một phần động vật, nên nó thuộc về tự nhiên, vì thế phải trả nó về tự nhiên, đừng lấy các quy phạm xã hội cứng nhắc áp đặt nó" (tôn chỉ này sẽ được quán xuyến trong toàn bộ ca khúc). Quả nhiên, ca khúc đã thành công rực rỡ, đạt vị trí quán quân tại Hà Lan và thứ hai tại Anh, làm hài lòng những nhà phê bình khó tính nhất, tạo nên những tiền đề mới cho Pop standards đương đại.
          Bài hát này có nhiều phiên bản lời khác nhau, để tiện cho việc đánh giá, tôi sẽ sử dụng phiên bản lời trong một buổi biểu diễn trực tiếp của Nina Simone tại Harlem Renaissance Festival năm 1969 ( buổi biểu diễn miễn phí để phục vụ quần chúng), vì đây là phần lời mang tính ngẫu hứng do chính cô sáng tạo thêm, thổi tâm hồn và nhân sinh quan của cô vào đó.
https://www.youtube.com/watch?v=GUcXI2BIUOQ
          Lưu ý, tất cả những phân tích, ý hiểu về ca khúc trong bài viết này đều thuộc về chủ quan tác giả.

          1. Sự từ chối một thế giới tha hóa và phi lí
          Không gian nghệ thuật bao trùm ca khúc là mô típ không gian con đường, trong đó, nhân vật trữ tình được phác họa một cách hàm ẩn như một bóng hình đang bước trên con đường dẫn lối về với tự nhiên, với bản thể của mình. Nội dung ca khúc được kết cấu làm hai phần đối xứng nhau như âm và dương, một phần phủ định và một phần khằng định. Ở phần thứ nhất, nhân vật trữ tình liệt kê tất cả những gì một con người bình thường, sống trong một xã hội bình thường cần có (hoặc bị buộc phải có), nhưng anh ta lại không có (hoặc chối bỏ).

Ain't got no home, ain't got no shoes

(Tôi chẳng có nhà, chẳng có nổi một đôi giày)

          Từ "home" trong tiếng Anh không chỉ có nghĩa là nhà, mà còn mang sắc thái ám chỉ gia đình. Gia đình được coi như một tiểu văn hóa, là tế bào của xã hội, là môi trường xã hội hóa quan trọng bậc nhất của cá nhân, đồng thời là nấc thang cơ bản để móc nối mỗi con người với xã hội. Những chuẩn mực đạo đức, ứng xử, những ràng buộc đầu tiên con người nhận được đến chính từ các thành viên trong gia đình. Xã hội thông thường luôn đề cao vai trò của gia đình với mỗi cá nhân, bởi thông qua gia đình, chính quyền và phong hóa có thể kiểm soát con người cả về tư tưởng và hành động một cách dễ dàng nhất. Nhưng chủ nghĩa hiện sinh với quan điểm tôn trọng bản thể gốc của mỗi cá thể con người, đề cao tồn thể, lại ít quan tâm đến gia đình, cho rằng sự tồn tại của nó chẳng đáng quan trọng. Đây cũng là thái độ bình đẳng, ủng hộ những người vô gia cư, những người nghèo khổ không có gia đình, và đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên đang loay hoay thoát khỏi ảnh hưởng của gia đình để tìm đến cuộc sống độc lập.
          Nếu đến các trường đại học ở phương Tây trong những năm 60 của thế kỉ trước, chúng ta sẽ thấy nhiều nhóm sinh viên để tóc dài, mặc quần jean rách, chân không giày, ngồi bệt trên bệ cỏ, chơi guitar và nghêu ngao những ca khúc phản chiến, đó chính là những người theo phong trào Beatnik (một dạng phong trào phản chiến, tiền thân của phong trào Hippie). Việc đi chân trần thể hiện sự khát khao quay về với tự nhiên và hòa mình vào quần chúng của tầng lớp trí thức. Ở Việt Nam, việc "nữ hoàng chân đất" Khánh Ly cởi bỏ đôi guốc cao, đi chân trần lên sân khấu cũng là một hành động hưởng ứng phong trào Beatnik. 

            Trong những câu hát tiếp theo, nhân vật trữ tình tiếp tục phủ định những thứ vật chất cần thiết với một con người thông thường.

Aint got no money, aint got no class,
Aint got no friends, aint got no schoolin,
Aint got no wear, aint got no job,
Aint got no money, no place to stay

Aint got no father, aint got no mother,
Aint got no children, aint got no sisters or brothers

(Chẳng có tiền, chẳng được đến lớp
Chẳng có bạn, chẳng biết đến trường học
Chẳng có quần áo, chẳng có việc làm
Chẳng có tiền, chẳng có nơi nào để ở

Tôi chẳng có cha, cũng chẳng có mẹ
Chẳng có con cái, chẳng có anh chị em)

          Tiền bạc, quần áo, việc làm là những thứ đè nén, tạo sức ép lớn nhất lên mỗi cá nhân trong thời đại hậu công nghiệp, và nó cũng chính là tội nhân gây nên những tội ác, đau khổ triền miên cho con người, khiến họ lầm lối trong trong vô minh không dứt. Một người trẻ sống hiện sinh luôn sẵn sàng vất bỏ những đồng tiền nhơ bẩn, lột sạch mớ quần áo tù túng trên người (tiêu biểu như việc khỏa thân biểu tình chống chiến tranh), để sống gần gũi với tự nhiên nhất, cho tâm hồn không bị vướng bận vào tham, sân, si. Trường học như một xã hội thu nhỏ với đầy đủ mọi tệ nạn, những cái thối tha ẩn sau vẻ ngoài hào nhoáng của nó, chỉ những ai đã từng bị kì thị, bị phân biệt đối xử (vì sự khác biệt của mình), phải hứng chịu nạn bạo hành học đường và chứng kiến những bất công tận cùng nơi trường học như Nina Simone (và chính tôi) mới thấu hiểu được tội ác mà nó gây ra. Không những thế, nhà trường còn là nơi đầu tiên mà chính quyền và xã hội dùng hệ thống giáo dục để nhào nặn suy nghĩ, tư tưởng của thế hệ trẻ theo ý muốn riêng của họ. Bạn bè là thứ quá xa xỉ với những người trót mang sự khác biệt, chẳng ai muốn chơi với một đứa bị cho là không bình thường (về thể chất hoặc tâm hồn), chỉ có sự giễu nhạo, kì thị, thậm chí là bạo hành. Khi ấy, từ "bạn bè" đã không còn tồn tại, chỉ có những thứ vốn ngang hàng với nhau lại tự cho mình cái quyền phân biệt đẳng cấp với kẻ khác.
          Có những kẻ không có cha có mẹ, có những kẻ lại không cần thiết đến cha mẹ, với họ, cha mẹ chỉ là đại diện cho thế hệ đi trước, bảo thủ và cứng nhắc. Trên thực tế, có rất ít bậc làm cha làm mẹ chịu thấu hiểu con cái mình, họ thường lấy quan điểm, chuẩn mực của thế hệ mình để áp đặt lên con cái, buộc chúng phải thế này, thế khác, mọi sự khác biệt, mới mẻ đều bị cấm đoán. "Con người ta" là một chuẩn mực phi thực mà các bậc cha mẹ cố tạo ra và áp đặt con mình vào đó, từ đó làm thui chột đi cá tính, dấu ấn riêng của mỗi bản thể trẻ đang khao khát vươn lên. Sự khác biệt quá lớn về ý thức hệ càng khiến khoảng cách giữa cha mẹ và con cái cách xa nhau hơn, từ đó dẫn đến những gò bó, nhức nhối trong tầng lớp thanh thiếu niên đang hừng hực nhựa sống như con chim muốn sổ lồng. Trong những năm 60, các cô gái thường phải mặc lại những bộ quần áo già cỗi của mẹ mình, còn các chàng trai thì bị đóng chặt trong những bộ comple ngột ngạt và kiểu tóc chuốt gôm, vuốt cao bóng nhẫy, họ mong muốn một điều gì mới mẻ hơn giải phóng mình, thế là thời trang Hippie ra đời. Đừng coi thường thời trang, thời trang là cuộc sống, là văn hóa và cách mạng, khi thời trang thay đổi thì con người thay đổi. Các chàng trai, cô gái trẻ lúc này đã dần chống lại cha mẹ mình bằng cách để tóc dài, đeo ruy băng, mặc quần ống loe, vẽ mặt, xỏ khuyên, sử dụng những loại họa tiết kiểu thổ dân để hòa mình với thiên nhiên như đúng tôn chỉ của hiện sinh chủ nghĩa. Việc chống lại những chuẩn mực ăn mặc của thế hệ đi trước là phương thức nhanh nhất mà thế hệ trẻ sử dụng để thoát khỏi tầm ảnh hưởng của cha mẹ mình, khẳng định bản thể mình có.
          Không chỉ cha mẹ, nhân vật trữ tình còn phủ nhận luôn cả con cái, anh chị em, tất cả những người thân thuộc, có chung dòng máu với mình. Không huyết thống, không người thân, đó là trạng thái cô đơn đến tột cùng của con người trong xã hội hậu công , thời đại phi lý chủ nghĩa. Trạng thái này đã từng được lột tả trong ca khúc Norwegian wood của nhóm The Beatles.

I once had a girl, or should I say, she once had me
She showed me her room, isn't it good, norwegian wood?

She asked me to stay and she told me to sit anywhere
So I looked around and I noticed there wasn't a chair

I sat on the rug, biding my time, drinking her wine
We talked until two and then she said, "It's time for bed"

She told me she worked in the morning and started to laugh
I told her I didn't and crawled off to sleep in the bath

And when I awoke I was alone, this bird had flown

(Tôi đã từng có một cô bạn gái, cũng có thể, cô ấy đã từng có tôi
Cô ấy đưa tôi về căn phòng nhỏ, làm bằng gỗ Nauy

Cô ấy mời tôi ở lại, nói rằng hãy ngồi bất cứ đâu tôi thích
Tôi nhìn quanh phòng nhưng không có chiếc ghế nào

Vì vậy, đành ngồi trên thảm, uống say cơn mê rượu
Chúng tôi nói chuyện đến muộn, rồi cô ấy bảo tôi hãy đi ngủ

Cô nói sáng mai phải đi làm, không quên nở một nụ cười
Tôi không cần giường, tôi muốn ngủ trong bồn tắm

Khi tôi thức giấc, chỉ còn lại mình tôi, con chim nhỏ đã bay mất)

          Chiếc ghế biến mất không lí do, cô gái biến mất chỉ sau một giấc ngủ, những mất tích phi lí đến đáng sợ này chính là trạng thái cô đơn, vô vọng của con người trong "thời đại mất Chúa", khi mà chúng ta trở nên quá nhỏ bé, mỏng manh, thậm chí chỉ còn là những cái tên, con số, ranh giới giữa sự sống và cái chết không còn nhìn thấy nữa. Trạng thái này bắt đầu xuất hiện trong nghệ thuật kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi con người bị dồn vào những trại tập trung, bị gạt bỏ tên tuổi, thân phận, thay vào đó là những con số, khi mà chỉ cần chớp mắt một cái là hàng trăm cái chết vây quanh mình, cướp đi tất cả người thân của mình, thậm chí là chính mình. Khi ấy, con người chỉ còn có thể nhìn đời với ánh mắt phi lí, hư ảo, coi tất cả chỉ là ảo ảnh, phi thực. Tâm thế của con người bị dồn lại, nhỏ bé trong cô đơn, tuyệt vọng, không còn lớn lao như thời kì nghệ thuật Phục hưng, Cổ điển, Lãng mạn ở các thế kỉ trước nữa. Trong tác phẩm Tàn cuộc (Fin de partie), nhà văn Becket đã từng phát biểu rất rõ về sự phi lí trong xã hội, giống như ca khúc Norwegian wood trên: "Rồi mày nhìn bức tường một lát và tự bảo: mình sẽ nhắm mắt lại, có lẽ cứ ngủ một lát đã, chắc sẽ dễ chịu hơn, và mày nhắm mắt lại. Nhưng khi đã mở mắt, thì mày sẽ không còn nhìn thấy nó nữa". Ngoài ra, trạng thái cô đơn, phi lí này cũng được lột tả rất rõ trong các tiểu thuyết của nhà văn Nhật Haruki Murakami như Rừng Nauy, Biên niên kí chim vặn dây cót... Nhưng những người hiện sinh không bi quan, sầu não như thế, họ dùng tiêu cực để phản lại chính tiêu cực, sẵn sàng phủ nhận mọi quan hệ thân thích, để qua đó gạt bỏ những ràng buộc hư vô của cuộc đời, chỉ cần khẳng định tồn thể của cá nhân mình mà thôi. Chỉ sống cho bản thể của mình, họ không bao giờ bị rơi vào trạng thái cô đơn vì chính họ đã hủy diệt được cái cô đơn của mình.
          Phủ nhận cha mẹ, phủ nhận huyết thống, thế hệ và mọi mối quan hệ xã hội, bè bạn là thái độ tiêu cực nhưng quyết liệt của những người trẻ hiện sinh trong quá trình vươn lên thể hiện cái tôi nổi loạn của mình, giúp họ thoát khỏi sự tuyệt vọng, cô đơn, bần cùng trong tâm hồn. Sự tiêu cực của thái độ này có thể được lí giải bởi quan điểm của Anbe Camuy: "Sự phi lý gắn bó con người và thế giới lại một cách chặt chẽ tới nỗi chỉ có lòng căm thù mới liên hiệp được những con người lại với nhau". Ở đây, chúng ta bắt gặp nét tương đồng với quan điểm của nhà triết học hiện sinh Soren Kierkegaard, ông cũng cho rằng nhiệm vụ của hiện sinh chủ nghĩa là mô tả cuộc sống con người như nó đang tồn tại (hiện sinh), nhưng lại là những con người duy nhất, cắt đứt mọi quan hệ với xã hội. Vì đối với những người hiện sinh chủ nghĩa, mỗi con người là một chủ thể độc đáo, huyền bí, là một tiểu vũ trụ đóng kín, không ai hiểu nổi và cũng không thể tự thông báo cái nội tâm phức tạp của mình cho bất kì ai. Con người không cần phải phụ thuộc vào bất cứ ai khác, chỉ cần đứng một mình, trau dồi và bộc lộ bản ngã, cái tôi để vươn lên chứng minh sự tồn tại của bản thân mà thôi, mọi thứ thuộc về xã hội là quá phù phiếm.

          Những người hiện sinh thích theo chủ nghĩa xê dịch, họ thích ngao du, thích hòa mình vào thiên nhiên, lấy đất trời làm nhà. Người bình thường cần một nơi để ở,  để neo bám, nhưng người trẻ hiện sinh chẳng cần điều đó, với họ, đó chỉ là những thứ làm vướng chân, ràng buộc bản thân mình trên cuộc hành trình về với tồn thể. Đó là lí do vì thế hệ trẻ những năm 60 thường bỏ nhà đi phượt, dựng các lều trại tạm thời để vui chơi, ca hát.

Aint got no earth, aint got no faith
Aint got no church, aint got no God
Aint got no love

(Chẳng có mặt đất, chẳng có đức tin
Chẳng biết nhà thờ, chẳng biết đến Chúa
Và cũng chẳng có tình yêu)

          Mặt đất là một ẩn dụ thường được nhắc đến trong chủ nghĩa hiện sinh, biểu trưng cho chỗ dựa của con người trong xã hội, chỗ dựa này có thể là vật chất hoặc tinh thần mà ai cũng muốn có. Trong một xã hội bấp bênh, khi mà mọi sự phân biệt về vật chất lẫn tinh thần ngày càng tăng, thì không phải ai cũng có được những chỗ dựa chắc chắn. Những người hiện sinh thì chẳng cần đến những thứ phù phiếm đó, chỗ dựa duy nhất họ cần là ý thức tồn tại của cái tôi mãnh liệt. Với họ, thế giới này chỉ là hư vô, phi lí, chỉ có ý thức tồn tại cá nhân mới là tồn tại đích thực: "Sự sinh tồn là sự tồn tại, mà sự tồn tại mãi mãi chính là cái tôi" (Martin Heidegger).
          Cũng trong đoạn nhạc này, nhân vật trữ tình đã liệt kê ra ba danh từ thuộc trường từ vựng tôn giáo là "đức tin", "nhà thờ", "Chúa". Ai cũng biết tôn giáo (trừ Phật giáo) là một dạng kiến trúc thượng tầng quyền lực nhưng lại đi liền với sự cổ hủ, bảo thủ và mị dân. Trong lịch sử nhân loại, tôn giáo đã cấu kết với chính quyền gây ra biết bao tội ác, chiến tranh, phân biệt đối xử, kìm kẹp quyền tự do và nhân văn, nhân ái của con người. Vì vậy, việc phủ nhận và chống lại tôn giáo luôn diễn ra phổ biến trong đời sống của nhân loại tiến bộ, từ thời kì Phục hưng, đến thế kỉ Ánh sáng ở phương Tây, và bây giờ, chủ nghĩa hiện sinh lại tiếp tục bác bỏ nó một cách mãnh liệt nhất. Trong thời đại mất Chúa, khi mà mọi thứ trở nên phi lí, hoang đường, thì có lẽ con người cũng chẳng cần đến Chúa nữa. Câu hát này gần giống với một câu hát trong ca khúc Imagine của John Lennon:

Imagine there's no countries
It isn't hard to do
Nothing to kill or die for
And no religion too
Imagine all the people living life in peace

(Hãy thử tưởng tượng không có nhà nước
Không quá khó phải không nào
Thì sẽ chẳng có ai phải chết hoặc bị giết
Và cũng không có tôn giáo
Mọi người sẽ được sống trong hòa bình)

          Trong đoạn nhạc tiếp theo, nhân vật trữ tình tiếp tục phủ định một lần nữa những mối quan hệ, những điều kiện vật chất thông thường để nhấn mạnh thái độ hiện sinh kiên quyết của mình.

Aint got no wine, no cigarrettes
No clothes, no country
No class, no schoolin
No friends, no nothing
Aint got no God, aint one more

Aint got no earth, no water,
no food, no home,
I said aint got no clothes, no job
No nothing, aint got no beleives,
and aint got no love

(Tôi chẳng có rượu, cũng chẳng có thuốc hút
Không áo quần, không quê hương
Không lớp, không trường
Không bạn bè, chẳng có gì hết
Không Chúa, chẳng có gì hơn nữa

Không đất, không nước
Không thức ăn, không nhà cửa
Tôi đã từng nói, tôi không có quần áo, không có việc làm
Chẳng còn gì, chẳng còn niềm tin
Và chẳng còn tình thương)
          Trạng thái bàng hoàng, bất an trước những tai họa do chính con người gây ra được phản ánh qua thái độ hư vô, bi đát trong hầu hết tác phẩm của các dòng chủ nghĩa hiện đại, mà trong đó, chủ nghĩa hiện sinh là nổi bật nhất. Ở ca khúc này, trạng thái đó chính là mất đi niềm tin, tình thương ở nơi bản thân mình và với tất cả mọi người xung quanh. Khi phải sống trong một xã hội không có điểm bắt đầu và kết thúc, không có bất cứ một giá trị sống nào để con người ta có thể neo bám, khi cả quá khứ và tương lai đều không tồn tại, thì niềm tin bị hủy diệt là lẽ tất yếu. Điều đáng chú ý trong đoạn hát trên là nhân vật trữ tình đã phủ nhận luôn cả quê hương, đất nước, đồng nghĩa với việc từ chối truyền thống, dân tộc, cội nguồn của mình (mà nguyên do là đánh mất niềm tin vào giá trị xã hội). Ai cũng sinh ra trong một dân tộc, đất nước, kế thừa truyền thống và thừa hưởng lợi ích từ cộng đồng mình. Nhưng khi chính quyền trở nên tha hóa, mượn danh dân tộc để ép buộc quần chúng phải đồng tình với tội ác mà họ gây ra, khi con người bị đè nén bởi truyền thống, quá khứ, vì nó mà đánh mất tự do, bản ngã của mình, thì những giá trị đó có đáng để tôn thờ? Đó chính là thái độ của giới trẻ phương Tây khi họ tham gia các cuộc biểu tình chống lại việc phát động chiến tranh của chính quyền nước sở tại. Chủ nghĩa dân tộc là tốt, nhưng hầu như mọi quốc gia trong lịch sử hàng ngàn năm qua đều cố neo bám vào nó một cách ích kỉ để đẩy mạnh chiến tranh, bành trướng, tranh chấp, giết chết hòa bình để chuộc lợi cho cộng đồng riêng rẽ của họ. Trong 3500 năm qua, thế giới chỉ hòa bình được 8% thời gian, còn lại là chiến tranh, giết chóc, tại vì đâu? Tất cả những nước từng gây chiến tranh với nước khác (thậm chí trong đó có Việt Nam) cũng chỉ vì một nguyên nhân duy nhất là chủ nghĩa dân tộc, muốn chiếm lấy tất cả, chà đạp lên dân tộc khác để chuộc lợi cho dân tộc mình. Liệu trong thời buổi toàn cầu hóa, khi các quốc gia đang xích lại gần nhau, khi mà nhân loại cần hòa bình, hữu nghị, thì thứ chủ nghĩa lỗi thời đó có nên tồn tại? Và cho đến giờ, những điều này vẫn còn nguyên giá trị hiện thực, khi một số nhà nước quanh năm ngày tháng chỉ biết mượn quá khứ, truyền thống, "ăn mày dĩ vãng" để mua chuộc lòng tin của nhân dân, che giấu sự tha hóa, biến chất của mình. Chúng ta sống cho cái lớn lao nhưng phù phiếm để làm gì, đao to búa lớn để làm gì khi mọi giá trị đều là giả dối và chỉ phục vụ lợi ích của thiểu số? Thà sống riêng cho cá nhân mình mà sống tốt, sống nhân ái thì còn hơn gấp vạn lần.

          2. "Dựa vào cái mình có để mãi mãi nâng mình lên"
But what have I got?, What have I got?,
Let me tell you what Ive got
cause nobody is gonna take away
unless I wanna to

(Nhưng tôi đã có gì? Tôi còn gì trong tay?
Tôi sẽ cho bạn biết những gì tôi có
Không ai có thể lấy đi những thứ này
Trừ khi chính tôi muốn vậy)

          Nếu như trong phần một, nhân vật trữ tình phủ định mọi giá trị của xã hội để phản bác những chuẩn mực cổ hủ, kìm kẹp tự do và sự tha hóa đến phi lí của nó, thì phần hai lại là sự khẳng định chắc chắn những thứ thuộc về bản thể tự nhiên của mỗi con người, cái mà bất cứ ai sinh ra cũng đều có. Chỉ cần chúng ta biết trân trọng và phát huy sức mạnh của nó, chúng ta sẽ tìm thấy tồn thể của mình, chẳng ai lấy nó khỏi ta được.

I got my hair, and my head
my brains, my ears
my eyes, my nose
and my mouth, I got my smile

(Tôi có mái tóc, có đỉnh đầu của tôi
Tôi có bộ não, có tai nghe
Tôi có mắt nhìn, có mũi ngửi
Và tôi có miệng cười, có nụ cười của tôi)
          Những người trẻ hiện sinh luôn tự hào về mái tóc dài khác người của họ, vì đó là phương tiện đầu tiên giúp họ bộc lộ cá tính con người mình. Từ thời trang, họ sẽ thay đổi phong cách sống cho cả một thế hệ, đem đến những lối sống mới phong phú và đa dạng hơn. Còn "đỉnh đầu" biểu trưng cho chí tiến thủ, "bộ não" biểu trưng cho tư duy, óc nghĩ. Có suy nghĩ riêng tức là có chính kiến, lập trường riêng, đó là những phẩm chất để cần có để làm nên một con người hiện sinh - con người đặc biệt, không bị hòa tan vào xã hội, để "cái tôi đích thực" không bị tập thể, nhân quần, xã hội bao vây, lấn chiếm, không bị biến thành "cái người ta". Chỉ những kẻ ngu ngơ, mờ nhạt mới dễ bị xã hội đồng hóa, bị nhà cầm quyền mị dân, tẩy não, bị biến thành con bài trên ván cờ chính trị. Nên nhớ rằng một người tài năng và nổi bật chưa hẳn đã là người giỏi nhất, nhưng bao giờ cũng là người biết suy nghĩ khác biệt với số đông. Suy nghĩ đó có thể chưa chắc đã đúng, nhưng luôn luôn là nên đặc biệt, mới lạ, không thể lẫn vào đâu được, từ đó, nó sẽ tạo nên muôn màu độc đáo cho cuộc sống, xã hội, nhân sinh. Trong thời buổi phi giá trị như hiện nay, khi mà mọi chân lí, giá trị đều bị hoài nghi và xem xét lại, một cộng một chưa chắc bằng hai, thuyết Darwin chưa chắc đã đúng, con người chưa chắc tiến hóa từ vượn cổ... thì cái cần nhất là một tư duy, chính kiến riêng được đúc kết từ cá tính, kinh nghiệm, kiến thức của mỗi cá nhân con người. Hãy bồi đắp kiến thức và cá tính để tạo nên cho mình những suy nghĩ riêng biệt, nói cách khác là đặc biệt để không bị hòa tan. Quan trọng hơn cả là lương tâm của bạn luôn tin rằng nó đúng, chứ không phải sự giả dối về tư duy, suy nghĩ.
          Theo mỹ học, mắt, mũi, tai là ba cơ quan quan trọng nhất để thưởng thức thẩm mỹ, giúp con người tiếp thu một cách trực quan để cảm thụ, từ đó hình thành cảm xúc, tư duy thẩm mỹ. Giác cảm thẩm mỹ là yếu tố đầu tiên giúp tạo nên phần người Người trong Con Người viết hoa, kiến tạo những giá trị nhân văn và hướng con người tới Cái Đẹp. Nhưng không phải ai cũng có đủ ba cơ quan tiếp nhận thẩm mỹ đó, vì vậy, lời bài hát như nhắc nhở mỗi con người hãy biết trân trọng những giá trị mà tự nhiên ban tặng cho mình. Người ta thường hay than phiền về vật chất mà quên rằng mình đang sở hữu những báu vật vô giá. Đồng thời, đây cũng là lời thách thức từ những người trẻ tới xã hội và chính quyền, rằng chúng tôi có mắt để nhìn, có mũi để ngửi, có tai để nghe, chúng tôi biết tất cả, đừng lừa dối, đừng che mắt chúng tôi, đừng sai khiến và ban phát cho chúng tôi, vì chúng tôi biết cảm nhận cuộc sống này bằng chính những gì chúng tôi có!

I got my tongue, my chin
my neck, my bubbies
my heart, my soul
and my back, I got my sex

(Tôi có lưỡi, cũng có cằm
Tôi có tháp cổ, có bộ ngực của tôi
Tôi có trái tim, có cả tâm hồn
Tôi có tấm lưng vững chãi, có cả tình dục/giới tính của tôi)
          Vẫn tiếp tục liệt kê những từ ngữ thuộc trường từ vựng bộ phận cơ thể một cách dồn dập theo nhịp nhạc, nhân vật trữ tình như muốn dựa vào tất cả những gì mình có (những thứ mà tự nhiên ban tặng, thuộc về bẩm sinh, chứ không tước đoạt hay xin xỏ kẻ khác) để khẳng định chắc chắn về sự tồn tại của bản thân mỗi con người trong cuộc sống này từ những tế vi nhỏ nhất, từ ngôn ngữ (lưỡi) đến từng hơi thở căng tràn hừng hực lửa sống (bộ ngực). Và trên hết, anh ta khẳng định hai thứ quan trọng nhất giúp con người tìm thấy tồn thể của mình, đó là trái tim và tâm hồn. Hãy luôn nuôi dưỡng trái tim và tâm hồn, đi theo tiếng gọi của nó để giúp ta không chệch hướng trong cuộc sống, từ đó tìm thấy bản ngã, để kiến tạo cuộc sống cũng như nhân cách của mình. Khi đó, bạn sẽ có được chỗ dựa vững chãi (chính là tấm lưng của bạn) để "mãi mãi nâng mình lên" mà không phải phụ thuộc vào ai hết.

          Từ "sex" trong câu hát trên có thể hiểu theo hai nghĩa là tình dục và giới tính. Thường thì người ta sẽ hiểu theo nghĩa là tình dục, vì nó hợp logic với tuyên ngôn của chủ nghĩa hiện sinh là "Make love, not war", thể hiện sự sùng bái tình dục và phản đối chiến tranh. Thực ra, việc sùng bái tình dục của những người Hippie không hề xấu như người ta vẫn tưởng, đó chỉ là một cách để họ đòi hỏi tự do cho con người và tìm kiếm hòa bình mà thôi. Nói như Camuy thì đây là thái độ cực đoan, "khước từ cuộc đời vì phi lí, nhưng để chống lại nó thì phải bằng sự phi lí của chính mình". Nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa thứ hai, nhân vật trữ tình đang tự hào về giới tính mình có. Vấn đề bình đẳng giới không mới nhưng chưa bao giờ là cũ, vì xã hội này hàng nghìn năm qua chưa có giây phút nào tồn tại cái là "bình đẳng giới", nhân loại tiến bộ vẫn luôn phải đấu tranh từng phút từng giờ cho nó. Giới tính là thứ mà tự nhiên ban tặng, thuộc về tự nhiên, tồn tại một cách tự nhiên, Chúa và xã hội không tạo ra giới tính nên không có quyền chà đạp, bác bỏ nó. Tôn trọng giới tính và phát huy những phẩm chất bản thể của nó là một cách chúng ta tôn trọng Mẹ Tự Nhiên đã sinh ra chúng ta, nói như Lady Gaga trong ca khúc Born this way là:

No matter gay, straight or bi
Lesbian, transgendered life
I'm on the right track, baby
I was born to survive
...
I'm beautiful in my way

(Dù là gay, dị tính hay lưỡng tính
Là les, haychuyển giới đi chăng nữa
Thì tôi cũng đang đi đúng hướng
Tôi được sinh ra để tồn tại
...
Và tôi đẹp theo cách của tôi)

          Trong những câu hát tiếp theo, nhân vật trữ tình vẫn tiếp tục khẳng định những thứ thuộc về bản thể tự nhiên của mình.

I got my arms, my hands
my fingers, my legs
my feet, my toes
and my liver, Got my blood

(Tôi có sải tay, có bàn tay của tôi
Tôi có từng ngón tay, có đôi chân trần
Tôi có đôi chân, cả những ngón chân
Tôi có lá gan, có dòng máu nóng chảy trong tôi)

          Hẳn ai cũng biết câu chuyện về Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang, đã dùng đôi tay, đôi chân trần và lá gan (lòng dũng cảm) của mình làm nên cả một cơ nghiệp, khiến nhà vua cũng phải ghen tị. Đôi bàn tay được nhấn mạnh nhiều lần để biểu dương cho sức lao động, sức mạnh và nghị lực vững chãi, ý chí vươn lên mãnh liệt trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ thanh niên với sức trẻ hừng hực cả về thể chất lẫn tinh thần. Không cần tiền bạc, không cần dựa dẫm vào người khác, chỉ cần có đôi bàn tay, đôi chân trần và dòng máu nhiệt huyết chảy khắp cơ thể, chúng ta có thể làm ra mọi thứ, đi tới mọi nơi ta muốn, từ đó tìm thấy tự do và cái tôi của mình. Thái độ tôn trọng những căn tính nguyên sơ mà tự nhiên ban tặng, tin tưởng để phát huy nó thể hiện một chủ nghĩa lạc quan, chứ không hoàn toàn bi đát như người ta vẫn tưởng.

I got life , I got life,
I got head, and two legs,
and bad times too, like you

I got my hair, my head
my brains, my ears
my eyes, my nose
and my mouth, I got my smile
and is my smile
I got life, Ive got my freedom,
and my heart, I got life!

(Tôi có đời tôi, có sự tồn tại của tôi
Tôi có đỉnh đầu, có đôi chân
Và tôi cũng có những giây phút đau khổ, như bạn

Tôi có mái tóc, có óc nghĩ của tôi
Tôi có bộ não, có tai nghe
Tôi có mắt nhìn, có mũi ngửi
Và tôi có miệng cười, có nụ cười của tôi
Nụ cười của tôi vẫn mãi tồn tại
Tôi có đời tôi, có tự do của tôi

Và tôi có trái tim, có cuộc đời của tôi!)


          Ở phần điệp khúc cuối cùng, hòa vào tiếng hát của Nina là tiếng hát bè của một giọng baritone (nam trung) da màu, hai người tiếp tục láy lại những gì đã hát ở phần trên. Việc sử dụng tiếng bè ở đoạn cuối như để tạo nên bản hòa ca của thế hệ, từ đó khích lệ sự trỗi dậy cái tôi thế hệ trong mỗi người trẻ tuổi, thôi thúc họ phát huy cái tôi đó để tìm lại cuộc đời và tự do của chính mình. Đó cũng chính là lời kêu gọi của ông tổ Jean Paul Sartre, quay về chủ thể để "dựa vào cái mình có để mãi mãi nâng mình lên", để "tự do sáng tạo ra mình bằng một hành động ý nghĩa và để trở thành cái mà trước đây mình không phải như thế". Chữ "cuộc đời tôi" được nhấn mạnh nhiều lần và dùng để kết thúc toàn bộ ca khúc như để khẳng định tâm thế làm chủ vận mệnh của con người trước thời cuộc. Trong thời đại phi lý ngày nay, chỉ cần tìm được cái tôi, cái tồn thể đích thực của mình, ta sẽ làm chủ được cuộc đời ta, nắm trong tay tự do vĩnh hằng, cái mà không ai cướp đi được. 

V. Tạm kết

Xã hội Việt Nam trước những năm Đổi mới (1986) thường có thái độ bài xích chủ nghĩa hiện sinh, cho rằng đó là thứ phong trào phản động, gắn liền với tệ nạn. Qua bài phân tích trên, tôi muốn mượn âm nhạc để làm sáng tỏ rằng chủ nghĩa hiện sinh không phải phong trào phản động, tuy có những hạn chế nhất định, nhưng đó là phong trào tiến bộ, vị nhân sinh, khơi gợi nhựa sống trong mỗi con người, có sức đấu tranh mạnh mẽ chống lại cái xấu xa, chống lại sự thao túng của giai cấp thống trị, của phong hóa xã hội, giải phóng tự do, bản ngã của con người. Dù đã đi qua hơn nửa thế kỉ, song, chủ nghĩa hiện sinh vẫn còn nguyên giá trị ban đầu của nó, không hề bị tụt hậu với thời đại. Trong thời đại hiện nay, chủ nghĩa hiện sinh càng cần được khẳng định giá trị và ứng dụng những mặt tích cực của nó vào đời sống xã hội, xây dựng nhân cách mới cho thế hệ trẻ. 
Nina Simone đã tạ thế được hơn chục năm, nhưng âm nhạc của cô vẫn còn nguyên giá trị. Tiếng hát ấy, tiếng đàn ấy vẫn ngày ngày cất lên trong mọi ngóc ngách của đời sống để nâng đỡ, dìu dắt tâm hồn thế hệ trẻ. Hình ảnh người phụ nữ da màu đầy man dại ngồi bên chiếc piano sẽ còn sống mãi với các cuộc đấu tranh nhân quyền, sống mãi trong trái tim nhân loại tiến bộ. Cô sẽ mãi mãi là một phần không thể thiếu của nền văn hóa đại chúng.

_Đức Long_
Hải Phòng ngày 15 tháng 5 năm 2014